Ngũ Hổ Tướng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
Giở lại những trang sử chiến đấu dũng
mãnh và hào hùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, nhân tưởng niệm ngày 30-04, là
ngày nước Việt Nam Cộng Hòa thôi tồn tại, chúng tôi muốn kể lại cho các bạn trẻ
Việt Nam công nghiệp chiến đấu và những giây phút chói chang cuối cùng của những
vị thần tướng làm rạng danh nước Nam trên trường quốc tế: Thiếu Tướng Nguyễn
Khoa Nam, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Thiếu Tướng Lê Văn Hưng, Chuẩn Tướng Trần
Văn Hai, Chuẩn Tướng Lê Nguyên VỹThiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam là hậu duệ của
dòng họ Nguyễn Khoa danh tiếng ở đất Thần Kinh Huế mà các cụ tổ từ đời này sang
đời nối tiếp đều có công trạng giúp Chúa Nguyễn mở mang bờ cõi về phương Nam,
mà điểm dừng là mũi Cà Mau. ược hun đúc từ truyền thống ấy, Thiếu Tướng Nam thuở
còn ở tuổi học sinh siêng năng chăm học, rất hiếu thảo với cha mẹ, ông thường
nghiền ngẫm kinh Phật, sách triết học và Nho học. Người cũng rất say mê hội họa,
âm nhạc và giỏi về nhạc lý. Sau này khi đã trở thành vị tướng Tư Lệnh Sư Đoàn 7
Bộ Binh và rồi lên Tư Lệnh Quân Đoàn IV Quân Khu IV người nổi tiếng là vị tướng
từ ái, thương lính yêu dân, rất được quân và dân Miền Tây kính trọng và yêu
thương. Mỗi lần Thiếu Tướng Nam bay đến các tiểu khu (tỉnh) hay các đơn
vị chiến trường nào, ông cũng đều không muốn làm phiền thuộc cấp vì chuyện ăn uống.
Lắm lúc ông chỉ cần vài trái bắp luộc là đã xong cho một bữa trưa. Nếu ở Bộ Tư
Lệnh thì người luôn luôn xuống Câu Lạc Bộ cùng dùng cơm với các sĩ quan, có gì
ăn nấy. Là một Phật tử thuần thành, Thiếu Tướng Nam ăn chay 15 ngày mỗi tháng,
cố gắng tôn trọng những giới cấm, tránh sát giới nhưng vẫn chu toàn bổn phận của
một người lính chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Bà con thân hữu đến thăm ông thì được,
nhưng để xin ân huệ hay nhờ vả đều nhận được sự từ chối thẳng thắn. Cuộc sống của
người quá giản dị, không vợ con, không nhu cầu vật chất xa hoa, không gì hết,
đơn giản đến mức trở thành huyền thoại.
Tướng Dương Văn Minh, người được Quốc Hội
Việt Nam Cộng Hòa bỏ phiếu đa số chấp thuận lên nắm quyến Tổng Thống vỏn vẹn mới
có ba ngày đã vội vã ra lệnh toàn Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa buông súng thôi
chiến đấu từ 10 giờ sáng ngày 30.04.1975.Dưới Quân Khu IV (Miền Tây) các tướng
lãnh của quân ta nào đâu chịu đầu hàng một cách nhục nhã như vậy. Đại cuộc
không thành, thành mất thì tướng phải tuẫn tiết theo thành. Thiếu Tướng Nam lên xe đi vào Quân Y Viện Phan Thanh Giản
Cần Thơ thăm những chiến hữu thương binh của người lần cuối cùng. Mối thương cảm
vận nước đến hồi đen tối, chiến hữu gãy súng và thương phế binh chắc chắn sẽ bị
quân địch tàn nhẫn đuổi ra nằm lê la trên hè phố bụi đất với những vết thương
còn lở lói và rướm máu, đã làm cho đôi mắt của người sưng húp lên. Đến tối Thiếu
Tướng Nam quay trở về dinh Tư Lệnh nằm bên bờ con sông Cái Khế và nhận được tin
Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Phó quân Khu IV đã nổ súng tuẫn tiết trong văn
phòng tại trại Lê Lợi. Đến nửa đêm, Thiếu Tướng Nam trân trọng vận bộ lễ phục
trắng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, với ngù vai, dây biểu chương, huy chương
các loại gắn trên ngực áo, nghiêm chỉnh ngồi ngay ngắn trên chiếc ghế sau bàn
Tư Lệnh. Rồi người đưa khẩu Browning lên bắn vào màng tang, đầu người gục xuống
về phía trái. Ngày hôm sau, các sĩ quan còn ở lại Bộ Tư Lệnh đã đứng nghiêm
chào người anh hùng rồi an táng thi thể người trong Nghĩa Trang Quân Đội Cần
Thơ. Trong đầu năm 1994, thân nhân của Thiếu Tướng Nam đã xuống Cần Thơ bốc mộ,
hỏa thiêu và mang tro cốt đem về thờ trong chùa Gia Lâm trên đường Lê Quang Định,
quận Gò Vấp, Sài Gòn.REPORT
THIS ADChuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn IV; Quân Khu IV
đã tự sát trong văn phòng Tư Lệnh Phó tại Trại Lê Lợi nằm trên đường Hòa Bỉnh,
Cần Thơ, trước Thiếu Tướng Nam vài tiếng đồng hồ. Tên tuổi của Chuẩn Tướng Hưng
được biết đến từ khi ông còn là một sĩ quan chiến đấu trên chiến trường Miền
Tây và được xưng tụng là một trong những con mãnh hổ dũng cảm nhất của Quân Lực
Việt Nam Cộng Hòa. Từ chức vụ Đại Tá Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 31 thuộc Sư
Đoàn 21 Bộ Binh, ông được điều động lên Quân Khu III làm Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ
Binh và được vinh thăng Chuẩn Tướng chỉ vài tháng trước khi chiến trận Mùa Hè Đỏ
Lửa nổ lớn tại An Lộc trong năm 1972. Định mệnh đã chọn Chuẩn Tướng Hưng làm
người tử thủ An Lộc và đánh thắng đến bốn sư đoàn địch, vang danh quân sử Việt Nam và chiến sử thế giới. Hình ảnh dũng cảm
và quen thuộc mà chiến sĩ tử thủ An Lộc ngưỡng mộ người Tư Lệnh của họ, là chiến
sĩ Lê Văn Hưng đầu đội nón sắt, quần lính, áo thun màu ô liu, tay xách cây M16
như bất cứ một người lính khinh binh nào, làm việc 24/24 giờ một ngày bên chiếc
đèn vàng mù mờ ánh sáng, hay ra chiến hào khích lệ tinh thần binh sĩ và tỉ mỉ
giảng giải cách sử dụng súng chống chiến xa M72 để bắn xe tăng địch.
Dưới sự chăm sóc và chỉ huy của Thiếu Tướng
Nam và Chuẩn Tướng Hưng, Quân Đoàn IV gồm các Sư Đoàn 7, 9 và 21 Bộ Binh đã đem
lại những ngày an bình cho người dân Miền Tây. Hai vị Tướng đã là một cặp chiến
binh kiệt xuất tạo nên bức tường thành vững chắc cho Quân Khu IV. Cho đến cái
ngày oan nghiệt 30.04.1975, hai vị Tướng nhiều lần nhận được lời đề nghị khẩn
thiết của người Mỹ muốn giúp hai vị và gia đình di tản sang Hoa Kỳ, nhưng cả
hai vị Tướng đã khẳng khái từ chối. Cho đến 4 giờ chiều cùng ngày, hai vị Thiếu
Tướng còn cố liên lạc với các đơn vị hỏi xem có nhận được lệnh hành quân và
phóng đồ bố trí chiến đấu chưa. Tất cả đều trả lời không. Hóa ra viên đại tá được
giao trọng trách chuyển lệnh đã bỏ trốn mất. Hai vị Tướng tức uất thở than cho
vận nước. Danh từ đầu hàng từ đầu cho đến tàn cuộc chiến rất xa lạ với người
chiến sĩ QLVNCH. Chuẩn Tướng Hưng vẫn với bộ quân phục tác chiến bộ binh màu ô
liu trở lại văn phòng Tư Lệnh Phó gặp lại vợ con nói lời vĩnh biệt và ân cần
khuyên nhủ bà Chuẩn Tướng phu nhân gắng cắn răng sống nuôi con, dạy dỗ con nên
người, nói cho chúng biết về người cha đã chết như thế nào cho tổ quốc. Người
cũng trân trọng từ biệt các chiến hữu:
“Tôi không bỏ các anh để đưa vợ con ra
ngoại quốc. Tôi cũng không thể chịu nhục đầu hàng. Các anh đã từng cộng tác với
tôi, những lúc các anh lầm lỗi tôi có rầy la. Xin các anh tha thứ cho tôi những
lỗi lầm nếu có.”
Những người lính ôm lấy lá cờ vàng và
cây súng thân thương vào lòng khóc nức nở. Họ biết giây phút vĩnh biệt người chủ
tướng đã điểm. Chuẩn Tướng Hưng cố xô đẩy đuổi mọi người ra ngoài, bình thản
đóng kín cửa văn phòng lại. Có tiếng súng nổ chát chúa từ bên trong vọng ra. Bà
Hưng và các chiến hữu phá cửa xông vào. Chuẩn Tướng Hưng nằm ngã người tựa vào
giường nửa trên nửa dưới, hai cánh tay dang ra và giật mạnh, toàn thân run rẩy
từng cơn, đôi mắt còn mở to uất hờn. Người đã bắn vào tim để tỏ rõ tiết tháo một
người Tướng lãnh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Máu từ trong tim người thấm ướt
mảng áo ngực và loang ra đỏ thắm tấm drap trắng. Thời điểm người anh hùng thăng
thiên đúng 8 giờ 45 tối ngày 30.04.1975. Khoảng 11 giờ khuya, Thiếu Tướng Nam gọi điện qua chia buồn. Bà Thiếu Tướng
Hưng nghe rõ tiếng thở dài của người Tư Lệnh phía bên kia đầu dây…
Trong cái ngày đau buồn ấy, tại bệnh viện
Grall (Đồn Đất) Sài Gòn, người ta đưa vào thi hài của Thiếu Tướng Phạm Văn Phú,
Tư Lệnh Quân Đoàn II; Quân Khu II, một chiến binh mà các cấp bậc đi lên đều được
trao gắn vinh thăng tại mặt trận. Thiếu Tướng Phú đã uống thuốc độc chết cùng với
vận nước.
Từ cái ngày người bị trọng thương và sa
vào tay giặc ở Điện Biên Phủ tháng 05.1954, rồi được trả về cho Việt Nam Cộng
Hòa sau ngày ký Hiệp Định Geneva 20.07.1954, Thiếu Tướng Phú đã thề với lòng là
người thà chết chứ không chịu nhục nhã lọt vào tay giặc một lần nữa. Lời thề ấy
người đã giữ trọn, người chết đi mang theo một nỗi hận mất nước và một nỗi oan
khuất về cuộc triệt thoái Quân Khu II không mong muốn. Còn nhớ tại trận Điện
Biên Phủ, toàn tiểu đoàn của Đại Úy Phú chỉ còn có 100 tay súng mà phải ngăn chống
một số lượng quân địch đông gấp hai mươi lần, ông dẫn quân lên đánh cận chiến với
địch và giành lại được hơn 100 thước chiến hào. Đại Úy Phú và một số các sĩ
quan chỉ huy tiểu đoàn đều bị đạn địch quật ngã và một vài giờ sau đó bị sa vào
tay giặc. Trong thời gian bị giặc bắt làm tù binh, bệnh phổi của Đại Úy Phú tái
phát và ông mang bệnh lao. định mệnh vẫn còn muốn cho người anh hùng được sống,
để tiếp tục chiến đấu cống hiến nhiều hơn nữa cho nền tự do của tổ quốc, sau
tháng 07.1954 Đại Úy Phú được trả về cho Việt Nam Cộng Hòa. Vị Tướng mảnh khảnh
người, khuôn mặt xương nhưng có cái bắt tay mềm mại ấm áp ấy đã nhanh chóng trở
thành một trong những vị Tướng xuất sắc nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, lần
lượt đảm nhiệm những chức vụ quan trọng: Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt, Tư Lệnh Biệt
Khu 44 thuộc Miền Tây, Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh, và sau hết Tư Lệnh Quân Đoàn
II; Quân Khu II. Chính là ở vị thế cực kỳ khó khăn này, Thiếu Tướng Phú phải
đương đầu với nhiều vấn đề sinh tử có tầm vóc quốc gia, mà đã vượt ra khỏi quyền
hạn nhỏ bé của ông. Người ta cho rằng việc thất thủ Ban Mê Thuột là do lỗi thiếu
phán đoán của Thiếu Tướng Phú. Người ta chỉ có thể dùng quân luật và quân lệnh
để bắt buộc Thiếu Tướng Phú thi hành lệnh rút quân, thậm chí đặt ông vào tình
trạng bất khiển dụng vì lý do sức khỏe ngay trong ngày 14.03.1975, hai ngày trước
khi Quân Đoàn II rút quân ra khỏi cao nguyên. Thiếu Tướng Phú đau lòng theo dõi
các mũi tiến quân của địch, như những vết dầu loang nhanh chóng thấm đỏ hết hai
phần ba lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa. Người biết cái sinh mạng nhỏ bé của mình
cũng co ngắn lại cùng với số mệnh của đất nước. Rồi khi những chiếc khăn rằn và
những chiếc áo màu xanh rêu mốc đã tràn ngập khắp phố phường Sài Gòn trong ngày
30.04.1975, người chọn cái chết lưu danh thanh sử bằng cách uống độc dược, để tỏ
rõ ý chí bất khuất của người làm Tướng và chứng tỏ cho đối phương biết rằng họ
có thể chiếm được đất nhưng không có thể quy phục được tiết tháo của những người
lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.REPORT THIS ADREPORT THIS ADMột trong những hồi ức rất đẹp và rất
hào hùng mà Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ còn để lại trong chiến sử Việt Nam, là lúc
ông cầm khẩu súng chống chiến xa M72 nhoài người lên khỏi hầm chỉ huy của Chuẩn
Tướng Lê Văn Hưng tại An Lộc bắn cháy một chiếc T54 chạy lần quầng sát một bên,
trong lúc Chuẩn Tướng Hưng đã thủ sẵn một trái lựu đạn trong tay để cùng chết với
quân địch. Đại Tá Vỹ đích thực là một khuôn mặt lừng lẫy của Miền Đông khi ông
về phục vụ dưới cờ của Sư Đoàn 5 Bộ Binh từ năm 1968.
Đại Tá Vỹ nổi danh là một chiến binh quả
cảm, một sĩ quan mẫn cán, năng nổ, có tài tham mưu và chỉ huy. Sau chiến thắng
An Lộc, Đại Tá Vỹ được đề bạt lên làm Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 21 Bộ Binh, cho đến gần
cuối năm 1974, sau một khóa học Chỉ Huy và Tham Mưu Cao Cấp bên Hoa Kỳ về, cái
ghế và văn phòng Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh đang chờ đợi ông, cùng với chiếc lon
mới Chuẩn Tướng. Chuẩn Tướng Vỹ dưới con mắt nể trọng của chiến sĩ Sư Đoàn 5 Bộ
Binh, là một vị chỉ huy siêng năng và đáng kính. Người nổi tiếng thanh liêm và
chống tham nhũng, bản tính của người bộc trực và dễ nổi nóng trước cái ác và
cái xấu. Một số sĩ quan trong sư đoàn làm chuyện càn quấy, ăn chận trên xương
máu của chiến sĩ đều bị người trừng trị thẳng cánh. Chuẩn Tướng Vỹ là một trong
những vị Tướng hiếm hoi có tinh thần tự trọng cao độ, không bao giờ ỷ lại vào mọi
sự trợ giúp từ phía Hoa Kỳ. Người ta nhìn thấy ở ông một tinh thần tự lực cánh
sinh và có nhiều sáng kiến khi phải đương đầu với những vấn đề khó khăn. Về mặt
quân sự, người có một tầm nhìn chiến lược rất bao quát và thường hay bày tỏ với
các sĩ quan tham mưu:
“Tôi nghi ngờ chúng nó không đánh mình
ngoài này mà sẽ tìm cách len lỏi đi thẳng về Sài Gòn”.
Sự phán đoán đó về sau đã hoàn toàn
đúng. Một quân đoàn Bắc Việt không giao chiến với Sư Đoàn 5 Bộ Binh, mà tìm
cách len lỏi xuyên qua những điểm bố trí của sư đoàn, hối hả tiến về Sài Gòn để
dứt điểm Tướng Dương Văn Minh. Sáng ngày 30.4.1975 họp tham mưu sư đoàn xong,
Chuẩn Tướng Vỹ và toàn ban sĩ quan ngồi bên chiếc máy thu thanh chờ nghe Tướng
Minh đọc nhật lệnh quan trọng. Trong thâm tâm Chuẩn Tướng Vỹ, người cứ tưởng là
Tướng Minh sẽ kêu gọi toàn quân chiến đấu đến cùng, hoặc di tản về Miền Tây tiếp
tục đánh. Thực chất chỉ là một bản nhật lệnh ngắn ngủi, khô khan, kêu gọi chiến
sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa các cấp buông súng, ai ở đâu thì ở đó và chờ binh
đội cộng quân đến bàn giao.
Chuẩn Tướng Vỹ nghiến răng miễn cưỡng ra
lệnh cho binh sĩ treo cờ trắng trước cổng căn cứ và cho thuộc cấp giải tán. Trước
khi chia tay, Chuẩn Tướng Vỹ đã mời các sĩ quan cùng ăn một bữa cơm cuối cùng với
ông. Nhìn khuôn mặt trầm buồn và ánh mắt u uất của vị Tư Lệnh, các sĩ quan đoán
chắc thế nào ông cũng tử tiết để bảo toàn danh dự người làm Tướng, nên họ đã
khéo léo giấu hết súng. Bữa cơm vĩnh biệt được dọn ra, những hạt cơm trắng ngần
trong khoảnh khắc đó dường như có vị mặn của máu và cứng ngắc như những hạt sỏi.
Mọi người còn đang dùng cơm thì Chuẩn Tướng Vỹ bỗng bỏ ra ngoài đi nhanh về hướng
chiếc trailer dùng làm văn phòng tạm cho Tư Lệnh. Các sĩ quan kinh hoàng nghe
hai tiếng nổ đanh gọn phát ra từ chiếc trailer. Mọi người hối hả chạy ùa tới mở
cửa thì thấy Chuẩn Tướng Vỹ nằm trên vũng máu và người đã thực sự ra đi, trên
tay còn cầm khẩu Beretta 6.35 mà mọi người không nhớ là nó còn nằm trong chiếc
trailer. Chuẩn Tướng Vỹ đã bắn vào phía dưới cằm, đạn đi trổ lên đầu. Khi các
sĩ quan và binh đội cộng sản vào tiếp quản doanh trại. sĩ quan sư đoàn cao cấp
của địch đã nghiêng mình kính phục khí tiết của Chuẩn Tướng Vỹ và nói: “Đây mới
xứng đáng là con nhà Tướng.”
Các chiến sĩ sư đoàn chuyển thi thể vị
chủ tướng ra an táng trong rừng cao su gần doanh trại Bộ Tư Lệnh. Ít lâu sau,
thi thể Chuẩn Tướng Vỹ lại được thân nhân bốc lên đem về cải táng ở Hạnh Thông
Tây, Gò Vấp, Sài Gòn. Năm 1987, bà cụ thân mẫu của Chuẩn Tướng Vỹ lặn lội vào
Nam hỏa thiêu hài cốt của người anh hùng và đem về thờ ở từ đường họ Lê Nguyên
tại quê nhà ở tỉnh Sơn Tây.
Cũng với tấm lòng của những người mẹ
thương con bao la mênh mông như đại dương, bà cụ thân mẫu của Chuẩn Tướng Trần
Văn Hai tuổi già tấm lưng còng còm cõi với thời gian, đã mưu trí gạt được quân
cộng đang tràn ngập trong căn cứ Đồng Tâm, Mỹ Tho, nơi đặt Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 7
Bộ Binh đem được thi thể vị Tư Lệnh về Gò Vấp mai táng. Bà rưng rưng nước mắt
nghẹn ngào nhận gói di vật của con bà từ tay một vị Trung U¨y thuộc cấp, trong
đó có một vài vật dụng cá nhân và số tiền hai tháng lương khiêm nhường của Chuẩn
Tướng là 70.000 đồng. Là một người con hiếu thảo, trước khi ra đi người còn cố
gửi về cho mẹ số tiền nhỏ bé đó. Lúc còn sống Chuẩn Tướng Hai nổi tiếng là vị
Tướng thanh liêm, cuộc đời thanh đạm không có của cải vật chất gì đáng kể,
ngoài chiếc xe Jeep của quân đội cấp cho, thì khi người ra đi, người chỉ để lại
cho hậu thế thanh danh thần tướng cùng tấm lòng sắt son đối với dân tộc và tổ
quốcTài năng của Chuẩn Tướng Hai được xác định bằng những chức vụ quan trọng
trong hệ thống quốc gia như Tỉnh Trưởng Phú Yên, Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân,
Tư Lệnh Phó Quân Đoàn II; Quân Khu II, Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia và sau cùng là
Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh. Đảm nhiệm những chức vụ cao tột như vậy mà người vẫn
sống một cuộc sống bình dị, nghiền ngẫm kinh Phật, trên tay lúc nào cũng thấy
những loại sách học hỏi khác nhau. Chuẩn Tướng Hai cũng nổi tiếng là vị Tướng
thương yêu và chăm lo cho đời sống chiến binh các cấp dưới quyền hết mực, thậm
chí coi thường cả mạng sống. Như câu chuyện đã trở thành huyền thoại về Đại Tá
Hai, Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân, đầu năm 1968 đã cùng vài sĩ quan đáp phi cơ
C123 ra tận chiến trường Khe Sanh và nhảy xuống, lặn lội ra tận từng chiến hào
tiền tuyến thăm hỏi khích lệ chiến sĩ Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân, dưới những
cơn mưa pháo rền trời của địch.
Năm 1974 định mệnh đã đưa Chuẩn Tướng
Hai về làm Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh để tên tuổi của người lưu tại nghìn thu
trong sử sách, bằng cái chết hào hùng mà đã làm địch quân kinh hoàng.
Trước ngày 30.04.1975 chừng hơn một tuần,
đích thân Tổng Thống Thiệu cho máy bay riêng xuống rước Chuẩn Tướng Hai di tản,
mặc dù Chuẩn Tướng Hai không phải là người thân cận hay thuộc phe phái của ông
Thiệu, điều đó cho thấy uy tín của người rất lớn. Chuẩn Tướng Hai thẳng thắn từ
chối và cương quyết ở lại sống chết với chiến hữu của ông. Chuẩn Tướng Hai
trong ngày cuối cùng vẫn tươm tất uy nghi trong bộ quân phục tác chiến ngồi
trong văn phòng Tư Lệnh chờ quân địch đến. Người ôn tồn khuyên bảo sĩ quan và
chiến binh thuộc cấp trở về với gia đình, nhưng có một số vẫn nhất quyết ở lại
bảo vệ vị chủ tướng của họ. Vì họ biết Chuẩn Tướng Hai sẽ không bàn giao căn cứ
Đồng Tâm, hoặc nếu có bàn giao thì cái phương thức ông làm sẽ không phải là
phương thức kiểu đầu hàng. Một con người đã từng chiến đấu bảo vệ đất nước hơn
hai mươi năm, không lý do gì người giao lại cho địch một cách dễ dàng. Khoảng xế
trưa, một đơn vị cộng quân thận trọng tiến vào Đồng Tâm và nhỏ nhẹ đề nghị xin
được tiếp quản căn cứ. Chuẩn Tướng Hai ngồi ngay ngắn sau chiếc bàn, bên trên
có hai cái đế nhỏ gắn lá Cờ Vàng Việt Nam và lá cờ Tướng một sao, nghiêm nghị
đòi hỏi một viên sĩ quan sư đoàn trưởng đến gặp ông. Ngoài điều kiện đó, ông
không muốn bàn chuyện nào khác. Tình hình rất căng thẳng, hai bên giương súng
ghìm nhau. Mãi lâu sau mới có một người gõ của xin vào rụt rè tự nhận là sư
đoàn trưởng. Chuẩn Tướng Hai bất ngờ rút súng lục ra nổ mấy phát vào viên sĩ
quan địch. Với khoảng cách rất gần đó, ông có thể giết chết đối phương dễ dàng,
nhưng ông chỉ bắn ông này bị thương nhẹ phải bỏ chạy ra ngoài. Để cho địch biết,
rằng muốn chiếm được nước Nam thì họ phải trả một cái giá nào đó. Chiều
tối cùng ngày, Chuẩn Tướng Hai đã uống thuốc độc tự sát trong văn phòng Tư Lệnh.
Những người anh hùng của dân tộc Việt
Nam, những chiến sĩ dũng mãnh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, suốt đời tận tụy
với nước non, đã hiến dâng cho tổ quốc những giọt máu đỏ thắm tinh khôi cuối
cùng của mình.
Tên tuổi và tấm gương chiến đấu của những
vị Thần Tướng ấy mãi mãi lưu lại trong sử sách Việt Nam và được dân tộc Việt Nam ngàn đời phụng thờ hương khói..
Phạm Phong Dinh
Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn có những anh hùng vị Quốc vong thân và bất khuất đáng phục
ReplyDelete